Chuyện Bách Hợp tự vẫn, Khanh Hoan phải đợi năm, sáu ngày mới nghe được.

“Phựt ——”

Tiếng dây đàn đứt vang lên, đầu ngón tay Khanh Hoan xuất hiện một vệt máu đỏ.

Nha Nhi vội vàng cầm thuốc mỡ, nhẹ nhàng thoa lên vết thương cho Khanh Hoan: “Có đau không, cô nương?”

Khanh Hoan lắc đầu: “Không đau.”

Sau khi bôi thuốc xong, Nha Nhi nói: “Bách Hợp cô nương có lẽ đã được giải thoát rồi, cô nương nên vui mừng thay nàng mới đúng.”

Khanh Hoan không đáp, chỉ im lặng.

Giải thoát? Vui mừng?

Khanh Hoan cảm thấy những lời Nha Nhi nói thật buồn cười, nhưng nàng chẳng thể nào cười nổi.

Nàng hiểu rõ, Bách Hợp chọn cách tự vẫn là vì nàng đã nhìn không thấy tương lai, hoàn toàn tuyệt vọng, và đó là lý do nàng quyết định kết thúc cuộc sống của mình.

Khanh Hoan ngẩn người, khẽ nói:

“Nàng từng mong chờ biết bao điều, đến chết cũng chẳng có gì thành thật. Như vậy, vui mừng từ đâu ra?”

Chuyện của Bách Hợp, đối với Khanh Hoan mà nói, chẳng khác gì một hồi chuông cảnh tỉnh. Đã có tiền lệ cay đắng như thế, nàng tuyệt đối không thể để bản thân rơi vào bước đường giống vậy.

Khanh Hoan hít sâu một hơi, ép bản thân chôn kín chuyện Bách Hợp xuống đáy lòng, rồi thản nhiên hỏi:

“Nha Nhi, mấy ngày gần đây, có nghe được tin tức gì về Liễu công tử không?”

Nha Nhi lắc đầu, giọng có phần ủ rũ:

“Không có. Nô tỳ ngày nào cũng dò hỏi khắp tiền viện, nhưng hành tung của Liễu công tử mập mờ khó đoán, lại thích ngao du sơn thủy, thường xuyên không ở trong kinh thành... Cho nên...”

Nói đến đây, nàng không nói tiếp, nhưng ý tứ đã quá rõ ràng, đến giờ vẫn chưa có tin tức gì cả.

Liên tục vấp phải trở ngại khi tiếp cận Liễu công tử, nhưng Khanh Hoan vẫn chưa từng nản lòng. Ngược lại, chính Nha Nhi lại bắt đầu thấy chán nản thay cho nàng.

Song nhớ đến lời dặn của Tiền nương tử, Nha Nhi vẫn thử khuyên:

“Cô nương, trong kinh thành công tử thế gia nhiều vô kể, hà tất phải một lòng chấp niệm với Liễu công tử? Như tam công tử phủ Yến Quốc công, nhị công tử phủ Bình An hầu, rồi Tôn công tử, Vương công tử nữa...”

Nàng một hơi kể ra bảy tám người, chỉ mong lay chuyển được tâm ý Khanh Hoan.

Thế nhưng Khanh Hoan chỉ nhẹ nhàng lắc đầu, giọng vững vàng:

“Nha Nhi, ta và ngươi đã vì Liễu công tử mà bỏ ra biết bao tâm sức, sao nỡ dừng lại giữa đường?”

“Nhưng mà...”

Chưa để nàng nói tiếp, Khanh Hoan đã vội nhón tay bốc lấy một miếng đậu hoàng, nhét vào miệng Nha Nhi, ngăn lời can gián:

“Không có nhưng nhị gì cả. Ta là ái mộ Liễu công tử, ngoài y ra, không muốn ai khác.”

Nói rồi, nàng rũ mắt, giọng thỏ thẻ:

“Nha Nhi, trong chốn thanh lâu này, người ta có thể tin tưởng, thật ra chỉ có mình ngươi. Nếu đến cả ngươi cũng không chịu giúp ta... ta thật sự không biết phải làm sao cho phải nữa.”

Nha Nhi nhìn dáng vẻ nàng lúc ấy, lòng lại mềm ra như cũ.

Nàng nuốt xuống viên đậu hoàng, khẽ thở dài:

“Được rồi, nô tỳ đều nghe theo cô nương.”

Ra khỏi Phù Dung Các, Nha Nhi thẳng đường đến phòng Tiền nương tử.

Tiền nương tử đang ngồi đánh bàn tính, từng nhịp gảy tí tách vang vọng.

Nghe tiếng bước chân, bà ta cũng chẳng buồn ngẩng đầu, chỉ lạnh nhạt hỏi:

“Thế nào?”

Nha Nhi cúi đầu thưa:

“Biểu cô mẫu, cô nương... không chịu.”

“Không chịu?”

Tiếng bàn toán ngưng bặt. Tiền nương tử cau mày, lạnh giọng hỏi:

“Vì cớ gì?”

Nha Nhi cắn môi, ấp úng đáp:

“Cô nương nói... nàng ái mộ Liễu công tử.”

Tiền nương tử khẽ cười khẩy, ánh mắt tràn đầy vẻ giễu cợt, hiển nhiên không tin cái cớ kia:

“Ái mộ? Người còn chưa từng gặp, chỉ xem qua một bức họa năm xưa, đã tự nguyện gửi trọn tấm chân tình? Đây chẳng phải coi ta như kẻ ngốc ư?”

Thanh lâu nữ tử, làm gì có thứ gọi là chân tình?

Nói là nhìn trúng thân phận quyền thế của Liễu công tử, còn đáng tin hơn cái lý do ái mộ kia gấp vạn lần.

Nha Nhi rốt cuộc hầu hạ Khanh Hoan đã mấy năm, trong lòng cũng sinh ra đôi chút cảm tình, không khỏi lên tiếng thay Khanh Hoan:

“Biểu cô mẫu, Nha Nhi thấy lời cô nương nói là thật lòng. Bốn năm nay hầu hạ bên người cô nương, chưa từng thấy nàng để tâm ai như vậy.”

Tiền nương tử hừ lạnh:

“Nàng để tâm thì có ích gì, phải làm cho Liễu công tử để tâm mới tính. Chỉ tiếc, ta vừa mới nhận được tin, Liễu công tử ba ngày trước đã xuất kinh du phương cầu học, sớm nhất cũng phải cuối năm mới trở về. Phù Dung này, tâm nguyện e rằng cũng thành nước chảy hoa trôi.”

Nha Nhi nghe xong, trong lòng bỗng trầm xuống, cuối năm mới trở về?

Mà từ nay đến khi cô nương xuất các chỉ còn không đầy hai tháng, nếu Liễu công tử đến cuối năm mới hồi kinh, rau kim châm cũng đã nguội lạnh(1).

Nếu cô nương hay tin này, trong lòng chẳng biết sẽ khổ sở tới mức nào.

Tiền nương tử vốn là hạng người thiếu kiên nhẫn, nếu không phải ngại Phù Dung kia mềm ngoài cứng trong, sợ cưỡng ép sẽ cá ch·ết lưới rách, khiến chính mình tổn thất cả người lẫn của, há lại cần vòng vo sai Nha Nhi đi thăm dò?

(1)“Rau kim châm nguội” là cách ví von dân gian, chỉ việc thời cơ đã trôi qua, dù có cố gắng cũng không thể cứu vãn.

Cổ nhân có câu "tiên lễ hậu binh", nay lễ bà cũng đã đưa ra, nếu Phù Dung còn không biết điều, vậy cũng đừng trách bà ra tay nặng.

Từ dưới đống sổ sách rút ra một tờ giấy, Tiền nương tử đưa cho Nha Nhi:

“Đừng nói là mụ mụ không thương nàng. Bảo Phù Dung chọn một người từ danh sách này, mụ mụ sẽ đích thân thu xếp, giật dây bắc cầu cho nàng. Nếu còn ba phải kén cá chọn canh, vậy đừng trách mụ mụ không màng tới ý nguyện của nàng.”

Nha Nhi ôm tâm sự, cầm tờ giấy ra ngoài. Khi tới khúc quanh, lỡ va phải Mẫu Đơn đương kim hoa khôi của lâu, tờ giấy nhẹ nhàng bay khỏi tay rơi xuống đất.

Mẫu Đơn cúi mình nhặt lên, liếc mắt nhìn nội dung, sắc mặt liền khẽ biến:

“Đây là cái gì?”

Nha Nhi vội vàng đoạt lại, nhét vào trong tay áo, cúi đầu hành lễ:

“Không có gì, Mẫu Đơn cô nương. Nô tỳ còn phải về hầu hạ cô nương nhà ta, xin cáo lui.”

Nhìn bóng lưng Nha Nhi vội vã rời đi, Mẫu Đơn siết chặt khăn tay, khẽ nghiến răng:

“Ngươi nói xem, mụ mụ vì sao lại thiên vị Phù Dung đến thế?”

Lúc trước khi nàng xuất các, Tiền nương tử cũng chưa từng đối đãi y nàng như vậy, để cho nàng tự mình chọn ân khách(2).

Cùng nàng đồng thời xuất các, cô nương Thủy Tiên bĩu môi nói:

“Còn chẳng phải vì nàng có gương mặt xinh đẹp.”

Ghen ghét thì ghen ghét, nhưng cũng không thể không thừa nhận: gương mặt kia của Phù Dung, mềm mại kiều diễm, được trời ưu ái, thật khiến người ta vừa hâm mộ vừa ghen tị.

“Đã như vậy, vì sao mụ mụ lại không cho Phù Dung đi Thành vương phủ hiến nghệ?”

Thủy Tiên buột miệng nói ra, cũng coi như nói trúng tâm tư Mẫu Đơn.

Lại thêm nửa tháng, chính là ngày đại thọ năm mươi của Thành vương gia.

Mỗi năm tới dịp mừng thọ, Thành vương phủ đều đích thân mời hoa khôi nổi danh nhất ở ngõ Bách Hoa vào phủ hiến nghệ.

Năm nay, người được chọn là Mẫu Đơn.

Kinh thành ai chẳng biết, Thành vương háo sắc, nơi khuê phòng lại nổi tiếng bạo ngược, ra tay hành hạ nữ tử không chút nương tình. Trong phủ mỗi tháng, từ cửa sau đưa nữ tử chết oan ra bãi tha ma, số lượng cũng chẳng kém gì ngõ Bách Hoa.

(2) Ân khách: cách gọi khách làng chơi trong thanh lâu thời cổ, mang ý nghĩa người khách "ban ân" cho kỹ viện, dùng để gọi một cách kính trọng mà tránh thô tục.

Mẫu Đơn vốn không muốn đi, nhưng Thành vương là Hoàng thúc của đương kim Hoàng thượng, thân phận địa vị đều bất phàm, Tiền nương tử không dám đắc tội, liền ép nàng phải gật đầu.

Cũng may Thành vương tuy háo sắc, nhưng chỉ động vào những cô nương còn trong sạch. Thêm nữa Tiền nương tử đã nhận được không ít chỗ tốt, nên Mẫu Đơn mới miễn cưỡng đồng ý việc vào Thành vương phủ hiến nghệ.

Nhưng nói cho cùng, Thành vương phủ cũng không phải nơi nàng tình nguyện tới. Nếu có người thay nàng đi, thì còn gì tốt hơn.

Chỉ tiếc, nếu người thay thế là Phù Dung, thì chuyện ấy căn bản không có khả năng. Ai cũng có nỗi khổ của riêng mình, nàng cũng không muốn đẩy Phù Dung vào chỗ hiểm.

Mẫu Đơn đè nén tâm tư nhỏ nhặt trong lòng, dịu giọng nói:

“Để ta đi là được rồi, Phù Dung... dù sao vẫn còn nhỏ.”

Thủy Tiên hừ nhẹ một tiếng, nói:

“Nhỏ gì mà nhỏ, cũng tới tuổi xuất các rồi. Năm đó ta còn nhỏ hơn Phù Dung, có khách nhân vừa ý, chẳng phải cũng phải ngoan ngoãn đi hầu hạ hay sao...”

Thật ra trong lâu cũng có vài quy củ, cũng xem như biết thương cảm cho các cô nương.

Tỉ như chuyện tuổi xuất các, nếu chưa đủ mười lăm tuổi, sẽ không cưỡng ép buộc các cô nương phải tiếp khách, trừ phi bản thân tự nguyện.

Năm đó, người để ý tới Thủy Tiên lại là một công tử ăn chơi trác táng, vừa vào lâu đã vừa mắt nàng, không nói hai lời liền kéo người vào phòng, thành chuyện ngay trong một đêm, tốc độ quá nhanh, căn bản không kịp cho ai phản ứng.

Việc đã rồi, công tử kia cũng để lại đủ bạc, Tiền nương tử tự nhiên không còn gì để nói, xong việc liền để Thủy Tiên dưỡng thân tới mười lăm tuổi, mới một lần nữa cho nàng ra tiếp khách.

Chuyện này, vẫn luôn là nỗi canh cánh trong lòng Thủy Tiên.

Mẫu Đơn lớn tuổi hơn Thủy Tiên, đương nhiên cũng biết việc ấy.

Nàng khẽ thở dài, dịu giọng an ủi:

“Chuyện cũ đã qua rồi. Chúng ta đều là nữ nhân, càng nên biết thương cảm cho nhau mới phải.”

Thủy Tiên vốn cũng chẳng phải kẻ bụng dạ nhỏ nhen, nghe Mẫu Đơn nói vậy, cũng không oán trách thêm gì nữa, lặng lẽ đi theo Mẫu Đơn tới phòng luyện múa, phụ trách đệm đàn cho nàng.

Thời gian lặng lẽ trôi trong tiếng đàn ngân nga, chẳng mấy chốc đã đến giờ lên đèn.

Trong một gian phòng tràn ngập hơi thở ái muội, Thủy Tiên khoác sa y ngọc sắc nửa che nửa hở, nâng chén rượu mát lạnh, nghiêng người để từng giọt rượu chảy dọc theo cần cổ trắng ngần, tiếng cười mềm mại như nước:

“Nô gia kính công tử một ly.”

Cẩm y công tử ôm trọn vòng eo thon thả, bật cười khẽ, cúi đầu vùi mặt vào bầu ngực thơm tho, mặc sức hưởng thụ ân huệ mỹ nhân dâng tới. Hắn thuận tay để lại trên làn da nõn nà một vết hồng mờ ám, tay còn lại len lén lần theo mép váy, từ từ vuốt ve đôi chân mịn màng không tì vết.

Thủy Tiên nũng nịu cười khẽ, tiếng rên rỉ mềm như bông, nhẹ nhàng cào ngứa vào lòng người.

Lúc ngẩng đầu, cẩm y công tử lười nhác nhéo nhẹ chiếc cằm thanh tú, ngón tay cái nhẩn nha vuốt ve làn da mịn màng như lụa, khen một tiếng:

“Nàng ngày càng khiến bổn công tử yêu thích không nỡ buông tay.”

Thủy Tiên cười rúc vào ngực hắn, giọng thấm ướt mị lực:

“Công tử đối đãi nô gia ân cần như vậy, nô gia nguyện lòng sống chết hầu hạ công tử.”

Tuy La công tử chỉ là một cậu ấm tầm thường trong kinh thành, nhưng chịu bao nàng nửa năm, cũng đồng nghĩa với việc nửa năm ấy nàng chỉ cần hầu hạ hắn, không phải tiếp đón khách nhân khác, đã là vận may khó cầu.

Mỹ nhân chủ động nhào vào lòng, La công tử lại không phải Liễu Hạ Huệ, tự nhiên ôm lấy người, đặt thẳng lên sập.

Mùi hương trên người mỹ nhân trộn lẫn hương rượu ấm áp, như sương mù bủa vây, mơ hồ đầy ái muội. Tay áo trượt xuống, làn váy lộn xộn, thân thể mềm mại dán chặt vào người, khiến hơi thở trong phòng dần trở nên nóng bỏng.

La công tử tham lam hưởng thụ một phen, lúc sau mới khoác hờ xiêm y, xuống giường, đi tới bên bàn rượu.

Hắn cầm lấy bức họa lúc trước đặt ở đó, chậm rãi mở ra, bước tới bên sập, hơi cúi người, đưa bức họa ra trước mặt Thủy Tiên, hỏi:

“Vị cô nương này, chính là cô nương Phù Dung trong lâu các nàng?”

Trên bức họa, là ngày ấy Khanh Hoan ở tiệm sách, chỉ che mặt bằng sa mỏng.

Bức họa này hơi trừu tượng, tay nghề họa sư không cao, không vẽ ra được một nửa vẻ đẹp thực sự cuay Khanh Hoan, nên Thủy Tiên thoáng nhìn cũng không nhận ra.

Bất quá, nàng lại nghe rõ cách La công tử gọi tên bức họa, Phù Dung.

Thủy Tiên đỏ mặt rụt vào trong chăn, dịu giọng đáp:

“Trong lâu chúng ta các cô nương đều lấy tên hoa mà gọi, đương nhiên cũng có một vị gọi là Phù Dung. Chỉ là công tử, người trong bức họa này với cô nương Phù Dung trong lâu… cũng không quá giống.”

La công tử nhướng mày, chậm rãi cười một tiếng:

“Vậy sao?”

Hắn lại hỏi thêm:

“Vậy trong bức họa kia đẹp, hay Phù Dung cô nương đẹp hơn?”

Thủy Tiên mềm mại vòng tay qua cổ hắn, cười mị hoặc:

“Công tử lại còn hỏi như thế, chẳng lẽ thấy nô gia không đủ xinh đẹp, nên mới lấy cớ tìm nô gia để dò hỏi về muội muội? Nô gia thật sự rất đau lòng đó.”

Vừa nói, nàng vừa uốn người dụi vào lòng hắn, lời nói mềm mỏng như rót mật.

La công tử chỉ cảm thấy cả người nóng bừng, lập tức đè nàng xuống, triền miên thêm một hồi, đem chuyện bức họa quẳng ra sau đầu.

Đến tờ mờ sáng hôm sau, La công tử khoác áo chỉnh tề, cầm theo bức họa rời phòng.

Đi tới hành lang dưới lầu, gặp một bà tử đang vẩy nước quét sân, hắn liền rút ra hai thỏi bạc, đưa tới trước mặt, thuận miệng hỏi:

“Người trong bức họa này, có phải là Phù Dung cô nương trong lâu?”

Bà tử thấy bạc, cười híp cả mắt, vội vã gật đầu:

“Công tử thật tinh mắt. Phù Dung cô nương của chúng ta, đẹp đến mức ai cũng phải khen ngợi!”

La công tử nhướng mày cười, lại hỏi tiếp:

“Vậy so với Mẫu Đơn cô nương thì sao?”

Bà tử không chút do dự:

“Phù Dung cô nương đương nhiên là hơn xa Mẫu Đơn cô nương rồi.” 

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play