Tổ phụ ta là Lý thợ rèn, cái tên đã nói lên nghề nghiệp gia truyền của ông – thợ rèn.

Gia đình ta ở Vĩnh Thành vốn nổi danh là một thế gia chuyên nghề nguội, truyền qua tám đời đều làm nghề thợ rèn. Có thể nói, đây là một gia đình có truyền thống sâu sắc, nguồn gốc lâu đời.

Ngày tổ phụ hấp hối, cũng là ngày mẹ sinh ta. Khi người khác thường ra đời bằng đầu, ta lại "độc đáo" hơn, sinh ra bằng chân trước.

Tổ phụ cố gắng cầm hơi cuối cùng, chỉ để được nhìn mặt đứa cháu đích tôn. Nhưng cuối cùng, ông vẫn không thể đợi được ta ra đời.

Trước khi ra đi, ông kéo cha ta lại gần bên giường, trăn trối bằng hơi thở yếu ớt, để lại một cái tên – một cái tên mộc mạc nhưng chất chứa hy vọng lớn lao:
Thiết Trụ

Thiết Trụ mang ý nghĩa là trụ cột vững chắc cho gia đình Lý thợ rèn.

Ngay sau khi tổ phụ qua đời, ta cất tiếng khóc chào đời. Cha ôm ta trong tay, quỳ trước giường tổ phụ mà gào khóc:
"Cha ơi! Ngài mở mắt ra nhìn đi! Đứa bé sinh ra rồi!"
"Cha ơi! Thiết Trụ… nhưng mà, nó là một nữ hài tử!"

Sau nỗi đau mất cha, cha ta nhanh chóng rơi vào một nỗi băn khoăn khác:
Thiết Trụ rõ ràng là một cái tên không hợp với con gái.

Nhưng đây lại là di nguyện của tổ phụ, một người vừa mới tắt thở. Nếu cha ta làm trái, chẳng phải sẽ mang tiếng là bất hiếu?

Cuối cùng, cha ta giãy giụa quyết định chọn làm một người con hiếu thảo. Và thế là, khuê danh của ta chính thức là Lý Thiết Trụ.

Sau khi tổ phụ qua đời:
Cha ta kế thừa tiệm thợ rèn của tổ phụ, tiếp tục giữ lửa nghề truyền thống gia đình. Nhưng khác với tổ phụ, mọi người không gọi ông là “Lý thợ rèn” nữa, mà kính trọng gọi ông là Lý sư phó.
Bởi vì cha ta từng được học hành và biết chữ.

Phía sau mỗi vinh quang của một gia tộc, luôn có một người con cháu "phản nghịch."

Trong dòng họ Lý thị tiệm thợ rèn, kẻ "phản nghịch" đó chính là cha ta – Lý Khang.

Từ nhỏ, cha ta đã bộc lộ một khát vọng khác biệt: không muốn gắn bó với nghề rèn, mà lại say mê văn chương.

Lúc chỉ mới bảy tám tuổi, cha thường giúp tổ phụ nhóm lửa trong tiệm thợ rèn, nhưng mỗi khi có thời gian rảnh, ông liền lén chạy ra ngoài, đi bộ qua ba con phố đến một con hẻm nhỏ. Ở đó, ông bò lên bức tường của một nhà tư thục, ngồi nghe lão nho sinh giảng bài Kinh Thi.

Hai năm trời, bất kể mưa gió, cha ta đều không bỏ buổi nào. Tổ mẫu thấy con mình say mê học hành, không đành lòng nhìn ông tiếp tục vất vả như vậy, nên đã dành dụm chút ít tiền từ gia đình nghèo khó để chính thức đưa ông vào trường học.

Dẫu vậy, thân phận của gia đình ta là thợ rèn, nên cha ta dường như đã định trước sẽ không thể đổi đời thông qua khoa cử. Thế nhưng, điều đó không ngăn được ông tiếp tục nuôi dưỡng mơ ước của mình: trở thành một thi nhân.

Cha ta sùng bái Khuất Nguyên hơn bất kỳ ai khác. Ông miệt mài học hỏi từ các tác phẩm của Khuất Nguyên, dù những chữ nghĩa trong đó đôi khi làm ông bế tắc. Dẫu vậy, cha vẫn luôn nỗ lực học theo tư tưởng và hành động của đại thần tượng.

Ông không chỉ thường xuyên khoác lên người một thân hoa lá cỏ cây, đứng trầm ngâm bên tiệm thợ rèn, mà còn tập tành sáng tác thơ. Lấy cảm hứng từ Ly Tao, ông lặng lẽ viết nên tác phẩm đầu tay của mình: Bực tức.

Mơ ước đáng quý ở chỗ, trên hành trình hiện thực hóa, nó luôn đi kèm những đả kích lớn lao.

Cha ta, Lý Khang, từng chịu một đả kích từ chính tổ phụ, Lý thợ rèn.

Năm cha 16 tuổi, tổ phụ không chịu được việc cha mải mê học văn, liền ép cha nghỉ học, ném luôn bản thảo tác phẩm “Bực tức” mà cha dồn hết tâm huyết vào bếp lò.

Tổ phụ muốn cha từ bỏ mơ ước làm văn nhân để an phận nối nghiệp gia đình, trở thành một thợ rèn.

Bề ngoài, cha đành từ bỏ giấc mơ của mình và tiếp quản nghề rèn.

Nhưng thực chất, ước mơ ấy chưa bao giờ vụt tắt.

Dù làm thợ rèn, cha vẫn giữ trong mình phong thái của một người yêu văn chương.

Tiếng búa đập kim loại làm cha liên tưởng đến tiếng binh khí của kỵ binh.

Những tia lửa từ lò rèn như ngàn vì sao trong dải ngân hà.

Cha trầm mặc, ít nói, nhưng phong thái cao ngạo ấy làm ông giống như một bậc "cao nhân".

Nhờ đó, tiệm thợ rèn của nhà ta trở nên nổi tiếng.

Thiên lý mã thì nhiều, nhưng Bá Nhạc lại hiếm.
( Người tài thì nhiều, nhưng người phát hiện ra tài năng lại hiếm. )

Năm cha 22 tuổi, cha gặp được “Bá Nhạc” của mình.

Năm ấy, thành Vĩnh Thành đón tiếp một vị khách quý – Bành Thành Bá, phụ thân của Thái tử phi.

Hoàng đế đương triều xuất thân nghèo khó, cùng Hoàng hậu Ngưu thị trải qua những năm tháng gian khó.

Khi lên ngôi, ngài cảm kích tình nghĩa hoạn nạn và lo ngại những mối nguy từ ngoại thích và hậu cung như các triều đại trước.

Truyện được edit duy nhất bởi Dao Chém Heo 

Đồng thời, xét thấy từ xưa đến nay hậu cung thường gây ra họa, còn ngoại thích dễ lạm quyền, hoàng đế nghĩ ra một phương pháp ổn định lâu dài:
đó là

Tuyển phi từ dân gian.

Bành Thành Bá có tổ tiên làm nghề nông, còn bản thân ông, trong thời trẻ, đã nhờ vào thời loạn lạc mà từ một nông dân bình thường trở thành quan chức thực thụ.

Sau khi thiên tử lập quốc, con gái của Bành Thành Bá, nhờ đức hạnh, sắc đẹp và xuất thân gia đình bình thường, được tuyển vào cung và trở thành Thái Tử Phi.

Nhờ đó, Bành Thành Bá từ một tiểu quan thất phẩm vô danh trở thành một hoàng thân quốc thích quyền uy.

Vĩnh Thành, quê hương của Bành Thành Bá, là nơi ông không bao giờ quên dù đã trở nên cao sang. Cứ vài năm, ông lại về quê để thăm viếng và cúng tế tổ tiên.

Lần này, trong chuyến hồi hương, đoàn xe ngựa xa hoa của Bành Thành Bá đi qua đầu hẻm nơi nhà ta.

Khi xe ngựa đến, giữa những tiếng ồn ào của đám đông, Bành Thành Bá đột nhiên nghe được một trận leng keng làm nghề nguội rất dễ chịu vang lên.

Hòa trong âm thanh đó là giọng hát sâu lắng và hùng hồn:

"Nhật nguyệt chợt này không yêm hề,
Xuân cùng thu này thay lời tựa.
Duy cỏ cây chi thưa thớt hề,
Khủng mỹ nhân chi tuổi xế chiều."

Đó là thói quen của cha ta, cũng là lý do khiến ông được mọi người kính ngưỡng.

* Nghề nguội : Về mặt hình ảnh, "nghề nguội" có thể được liên kết với những nghề như sửa chữa, lắp ráp, thiết kế, hay làm việc với vật liệu không yêu cầu nhiệt độ cao (so với nghề "nóng" như hàn, đúc).

Làm nghề nguội, vịnh xướng 《 Ly Tao 》.

Nếu người khác bị cha ta hấp dẫn, thường chỉ xuất phát từ sự tò mò hiếm lạ. Nhưng Bành Thành Bá lại bị cha ta thu hút vì đó như cuộc gặp gỡ tri âm giữa sơn thủy.

Bành Thành Bá bị âm thanh làm nghề nguội hòa cùng giọng vịnh xướng sâu lắng thu hút đến mức xuống xe, lần theo tiếng hát mà tìm đến tiệm thợ rèn nhà ta.

Tại đó, ông nhìn thấy một chàng thanh niên cao tám thước, cơ bắp rắn rỏi, mồ hôi nhỏ giọt, đang làm nghề nguội trong bộ dạng ở trần, miệng vịnh xướng 《 Ly Tao 》.

Kinh vi thiên nhân!

Bành Thành Bá đứng dưới cây hòe trước tiệm thợ rèn, chăm chú ngắm nhìn cha ta.

Còn cha ta thì thể hiện một phong thái không giống người thường. Dù đối mặt với một vị quý nhân mặc áo gấm đang chăm chú nhìn mình, ông vẫn không hề tỏ ra bối rối hay lo lắng, tiếp tục làm nghề nguội như thể không hề hay biết.

Trong lòng Bành Thành Bá bỗng dâng lên cảm xúc mãnh liệt, vì ông nghĩ đến một người.

Một bậc cổ nhân mang phong thái hiên ngang: Kê Khang.

Cuối cùng, khi cha ta rèn xong một con dao phay, nhúng nó vào nước lạnh, cầm lên để kiểm tra lưỡi dao, Bành Thành Bá bước tới chủ động chào hỏi.

“Không biết tiên sinh tên họ là gì?”

Cha ta đặt con dao xuống, bình thản đáp lễ: “Nếu trưởng giả đã hỏi, tại hạ là Lý Khang.”

Bành Thành Bá siết chặt tay.

Kê Khang.

Lý Khang.

Kê Khang làm nghề nguội.

Lý Khang cũng làm nghề nguội!

Sự trùng hợp đầy ý nghĩa này khiến Bành Thành Bá quyết định kết bạn với cha ta.

Ông ngỏ lời mời cha ta dùng bữa cơm cùng mình.

Bởi vì triều đình ta thích ức chế đối ngoại, Thái tử cha vợ Bành Thành Bá, ngoài phú quý thì gần như tay trắng, sinh mệnh có thể nói là tịch mịch như tuyết.

Trong một lần gặp gỡ với cha ta vào ban đêm, họ uống rượu một ly nối tiếp một ly, vì cả hai đều có tài nhưng không gặp thời, lại có chí khí khó mà thưởng thức lẫn nhau, nên Bành Thành Bá từ xưng hô Lý sư phó đã chuyển sang gọi cha ta là tiểu Lý huynh đệ.

Bành Thành Bá và tiểu Lý huynh đệ, từ vàng bạc, đồng thiết đến triết học nhân sinh, hai người nói chuyện say sưa không dứt, rượu uống ngàn ly mà vẫn chưa đủ, vì vậy cả hai cùng ngồi chung bàn, sống cùng nhau, nằm ngổn ngang trong tiệm rượu, không biết khi nào trời sáng.

Ngày hôm sau, cha ta vì say rượu mà phải nghỉ ngơi cả ngày, lại vì tối hôm qua không về ngủ nên bị nương ta phạt quỳ bên bàn xát.

Khi cha ta quỳ đối diện với hoàng hôn, vẻ mặt cao ngạo, ông vẫn chưa nghĩ đến rằng, vận mệnh của mình đã âm thầm thay đổi.

Không lâu sau, ông làm quan.

Khi Bành Thành Bá rời vĩnh thành để hồi kinh, ông không đành lòng để tiểu Lý huynh đệ phải sống vất vưởng ngoài phố, vì vậy đã tiến cử cha ta vào một chức quan.

Vĩnh Thành huyện chủ bộ.

Chủ bộ không phải là một chức quan cao, chủ yếu chỉ là một chức quan bình thường, nhưng từ khi cha ta nhận chức ở đây, ông đã được ăn cơm quan phủ, trở thành người thường trong mắt quan gia, có thể nói là một bước lên trời.

Cha ta cũng không phụ lòng Bành Thành Bá đã coi trọng ông.

Trong suốt mười năm làm chủ bộ, cha ta thức khuya dậy sớm, tận tâm với công việc, được cấp trên là huyện gia coi trọng và nhận được sự tôn trọng của bá tánh trong vùng.

Tiệm thợ rèn nhà ta vẫn không dừng lại, cha ta vẫn thường xuyên giúp đỡ người dân miễn phí, làm nghề nguội.

Dưới sự nổi tiếng ấy, cuộc sống gia đình ta ngày càng trở nên khó khăn, rất túng quẫn.

Mười năm trôi qua, Bành Thành Bá lại một lần nữa quay lại Vĩnh Thành, và lần này, ông mang đến sự thay đổi cho vận mệnh của gia đình ta.

Nhưng sự thay đổi này không phải là của cha ta, mà là của ta.

Trong suốt mười năm qua, cha ta và Bành Thành Bá vẫn giữ liên lạc, họ như những người bạn thân thiết, có thể nói là linh hồn của nhau.

Bành Thành Bá quay lại Vĩnh Thành, nhìn thấy tiểu Lý huynh đệ ngày càng bần cùng nhưng khí chất lại càng cao ngạo, ông rất vui mừng, cao hứng không thôi, quyết định ở lại nhà ta một đêm.
Chính là ngày này.

Và đó là ngày mà ông nhìn thấy trong sân, một thiếu nữ mười bốn tuổi, dáng dấp xinh đẹp,Lý Thiết Trụ đang bửa củi.

Là ta đó.

Ông đầu tiên chúc mừng cha ta, khen ngợi rằng cha ta có một cô con gái xinh đẹp và là 1 nữ nhi có tiền đồ.

Ngay sau đó, Bành Thành Bá nhìn ta thật lâu, rồi dùng giọng cảm thán nói: "Đại loại ngô nữ!"

"Ngô nữ" chính là Thái Tử Phi đương triều.
"ngô" (吾) là một từ cổ trong tiếng Hán, có nghĩa là "ta" hoặc "mình". Đây là cách xưng hô trang trọng và lịch sự trong văn cổ, được dùng để chỉ bản thân người nói.

  • "Ngô nữ" (吾女) có thể dịch là "con gái của ta" hoặc "cô nương của ta". Câu này có thể hiểu là một cách xưng hô tôn trọng đối với một cô gái, thể hiện sự yêu mến, quý trọng của người nói. Đây là một lời khen ngợi, như trong văn cảnh bạn đưa ra, khi Bành Thành Bá dùng cụm từ này để ám chỉ Thái Tử Phi, điều này có nghĩa là ông đánh giá cô rất cao, xem cô là một người đặc biệt.

Vì vậy, "ngô nữ" ở đây không chỉ đơn giản là "cô gái" mà là một cách gọi đầy tôn trọng, mang ý nghĩa ca ngợi.

Đây gần như là một lời khen ngợi cao nhất dành cho một cô nương.

Ngay sau đó, Bành Thành Bá mang đến một tin tức quan trọng.

Hoàng thái tôn, chính là cháu ngoại của ông, đã trưởng thành, và hoàng đế bệ hạ đang tuyển phi cho thái tôn.

Mà ta, một cô gái mười bốn tuổi xinh đẹp duyên dáng, lại cực kỳ thích hợp với việc trở thành Thái Tử Phi.

Nhìn thấy cảnh tượng này, cha ta vốn dĩ mang phong thái cao nhân, cũng không khỏi sợ hãi, liên tục xua tay từ chối.

Tuy nhiên, Bành Thành Bá lại bị chính suy nghĩ của mình làm cho kinh ngạc, nhìn ta rồi lại nhìn ta, cơ hồ muốn ta gọi ông một tiếng "ông ngoại."

Rất nhanh, Bành Thành Bá lại rơi vào tình trạng phiền muộn, bởi vì là ngoại thích, dù ông là thân ngoại tổ của hoàng thái tôn, nhưng trong việc tuyển phi cho thái tôn, ông không có chút quyền lực nào, thậm chí không nên có chút vọng tưởng gì về quyền lực hay quyền quyết định.

Vì vậy, sau khi ông rời đi, chúng ta 1 nhà ba người chỉ dám coi việc này như một cơ hội xa vời, không dám để lòng mình thực sự trông chờ vào đó.

Mãi cho đến mấy tháng sau, huyện gia lại tìm đến cha ta, vẻ mặt đầy kích động.

Ông thông báo với cha ta rằng trong danh sách tuyển chọn của phủ, thình lình xuất hiện cái tên Lý Thiết Trụ.

Cả gia đình ta đều kinh ngạc.

Toàn bộ bá tánh trong huyện cũng vô cùng kinh ngạc.

Dù Thái Tử Phi có nguồn gốc từ Vĩnh Thành, nhưng nàng lại không sống ở Vĩnh Thành lâu dài. Dù tổ trạch của nàng gắn liền với vô số truyền thuyết về phượng hoàng, nhưng trong toàn huyện, không ai từng gặp qua con phượng hoàng đó.

Ta thì khác.

Ngay từ khi ta còn trong bụng nương ta, khi cha ta chỉ là một người thợ rèn, thì ít nhất một nửa cư dân trong thành đã từng thấy ta.

Vì vậy, mọi người đều vô cùng kích động.

Vào ngày ta rời Vĩnh Thành để vào kinh, bởi vì có quá nhiều người đến xem, ta suýt nữa không thể ra khỏi cửa thành.

Điều này lại đúng với tình huống khi ta chính thức đến kinh thành, ta cũng suýt nữa không thể vào được cửa thành.

Vì ta bị sét đánh.

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play