Tố Hữu được biết đến như là “cánh chim đầu đàn” của thơ ca Cách mạng Việt Nam với giọng thơ trữ tình- chính trị và hồn thơ đậm đà tính dân tộc. Tố Hữu đã từng bộc bạch: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”. Với một tình yêu dạt dào dành cho nơi mình đã ở cả một phần đời, Tố Hữu đã họa nên đứa con tinh thần “Việt Bắc”- là khúc anh hùng ca, là bản tình ca, là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp và là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Tố Hữu.
Chặng đường thơ ca của Tố Hữu luôn gắn với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, và với ý tưởng trữ tình hóa những sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, Tố Hữu đã viết nên bài thơ tại buổi chia tay giữa cán bộ cách mạng và nhân dân sau khi hiệp định Genève được kí kết.
Viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên 1 cấu tứ từ rất độc đáo - cấu tứ từ khúc hát đối đáp giữa người ra đi và người ở lại trong thời khắc chia tay để từ những khúc hát đối đáp ấy dặn dò, khơi gợi về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm đó mà dựng lên hình ảnh của đất nước, cán bộ kháng chiến, nhân dân Việt Bắc, của Bác, của Đảng.
Nổi bật trong khúc tình ca là bức tranh tứ bình nên thơ, hài hòa - một bức tranh chan chứa tình cảm của tác giả đối với con người và thiên nhiên nơi đây để từ đó (nêu lệnh phụ) :


Nằm trong dòng cảm xúc hồi tưởng, người ra đi đã bộc lộ nỗi nhớ niềm thương tha thiết gửi về hai miền đối tượng “hoa cùng người”:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Với câu hỏi tu từ lửng lơ, bỏ ngỏ khiến nỗi nhớ như xoắn chặt vào tâm can mỗi người. Nó không trào dâng như thác lũ trong nỗi nhớ Tây Tiến của Quang Dũng, mà sự lưu luyến ấy nhẹ nhàng, như vỗ về trái tim người đọc. Lối đối đáp giao duyên “ta - mình” như gói ghém tất thảy những nhớ thương thầm kín. Đó chính là sắc điệu của dân gian và tính dân tộc thấm đẫm trong từng vần thơ Tố Hữu. 
Nỗi nhớ ở đây mượn màu sắc ca dao, là sự nối tiếp, là khía cạnh trong quan hệ khắng khít: hoa – người. Quê hương hiện hình trong vẻ đẹp cụ thể: vẻ đẹp tinh túy của thiên nhiên “hoa” hòa hợp với vẻ đẹp và sức sống của con người. Cụm từ “nhớ những hoa cùng người” bộc lộ hai nỗi nhớ hòa quyện, sóng đôi, giao hòa đăng đối: nhớ vẻ đẹp riêng của Việt Bắc, cảnh ấm áp có hồn do có người và nhớ người Việt Bắc sinh động trong cảnh.
Bức tranh tứ bình còn có kết cấu 4 cặp lục bát đặc biệt với sự đan xen giữa các hình ảnh: câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Tất cả đã tạo nên một bức tranh độc đáo và mới lạ trong nền thi ca Việt Nam. 
Tác giả đã đặc tả bức tranh thiên nhiên Việt Bắc qua sự luân chuyển của bốn mùa trong năm theo dòng trình tự của sự kiện lịch sử: đông-xuân-hạ-thu với những nét độc đáo trong màu sắc và hình ảnh, xen kẽ là tình cảm của tác giả đối với con người và thiên nhiên nơi đây. 
Mở đầu cho bức tranh tứ bình không phải là mùa xuân mà là sự xanh tươi khỏe khoắn, ấm áp và rạo rực của cảnh vật trong những ngày đông lạnh giá hòa quyện với hình ảnh con người lao động:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.” 
Trong thơ Tố Hữu, ta bắt gặp một mùa đông không hề có bóng dáng của sự lụi tàn mà ngược lại là vạn vật tươi tắn, sống động, tràn đầy nhựa sống. Sự ấm áp ấy có lẽ chỉ có ở Việt Bắc, một Việt Bắc chỉ trong lòng Tố Hữu mới có được, khác với cái giá lạnh, cô đơn mà trước nay đã trở thành đặc trưng của mùa đông. Trong thơ Tố Hữu, mùa đông lại gắn với những gam màu nóng, rực rỡ trong hội hoạ. Chấm phá của bức tranh thuỷ mặc một điểm sắc đỏ trong không gian bao la, xanh ngắt mang đến cho không gian một sức sống mãnh liệt. “Đỏ - xanh” vốn là hai gam màu luôn song hành cùng nhau để tạo nên sự nổi bật, tưởng chừng như đối lập nhưng lại rất hài hoà, khiến cả câu thơ như bừng sáng. Nhìn từ xa, những bông hoa chuối đỏ tươi như những bó đuốc rực cháy giữa núi rừng bạt ngàn. Câu thơ khiến ta nhớ đến một cảm xúc quen thuộc trong thơ Nguyễn Trãi:              
“Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.”
(Cảnh ngày hè)
Mùa đông trong thơ Tố Hữu không hè lạnh lẽo, mà trái lại như đang lan toả hơi ấm. Phải chăng đó là vì mùa đông ấy là mùa đông 1954 - mùa đông của tháng ngày độc lập. Ánh sáng chiến thắng đã xua tan bóng tối, gió lạnh, ấp ủ vào trong lòng người đọc niềm vui, niềm hy vọng. 
Bên cạnh nét đẹp của “hoa” là nét đẹp của “người” - một nét đẹp thật khoẻ khoắn với “nắng ánh dao gài thắt lưng”. Hai chữ “nắng ánh” như nhãn tự của câu thơ, thể hiện nét tài hoa của tác giả trong việc sử dụng ngôn từ. Ánh nắng mặt trời chớp loé trên lưỡi dao cài ngang hông của người dân miền sơn cước cần cù, chăm chỉ. 
Tố Hữu đã sử dụng lăng kính tinh tế của mình diễn tả nên khoảnh khắc tuyệt đẹp của người lao động trên “đèo cao”. Với con dao đi rừng cài ngang lưng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng; tầm vóc của con người như hiên ngang, lớn lao, rắn rỏi hơn bao giờ hết. Hình ảnh con người hiện lên như điểm sáng, bao trùm toàn bộ thiên nhiên. Đó cũng chính là tấm lòng trân trọng, cảm phục và yêu mến vô cùng trong lòng người ra đi.
Đông qua, xuân về. Bằng dòng hoài niệm của mình, Tố Hữu đã dẫn người đọc đến với cảnh núi rừng Việt Bắc nên thơ, tinh khôi, trong sáng: 
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Sức sống của mùa xuân lan toả khắp núi rừng Việt Bắc. Phép đảo ngữ trong cụm từ “trắng rừng” khiến tính từ “trắng” có chức năng như một động từ. Màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã lấn át toàn bộ sắc xanh của khu rừng, làm bừng sáng cả câu thơ. Động từ “nở” khiến câu thơ tràn đầy nhựa sống. 
Đằng sau những thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc, hình ảnh con người hiện ra với những hoạt động hàng ngày “chuốt từng sợi giang”. Công việc “đan nón” thể hiện sự bình dị, đời thường với con người trong tư thế lao động miệt mài. Lượng từ “từng” được đặt vào câu thơ một cách tự nhiên, không gượng ép với động từ “chuốt” đã tạo nên một hiệu quả từ ngữ đặc biệt. Từng sợi nhớ, sợi thương như đan dày trong tâm tưởng, con người lao động hiện lên với vẻ đẹp cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo và tài hoa. “Văn học vị nhân sinh”, vì thế, hình ảnh con người hiện lên trong thơ Tố Hữu luôn mang những phẩm chất thật đẹp, thật đáng trọng.
Xuôi theo dòng chảy cảm xúc, bức tranh tứ bình nơi Việt Bắc tiếp tục mở ra với không khí tưng bừng náo nhiệt, với sắc màu rực rỡ, lung linh khi hè sang. Khung cảnh đại ngàn hiện lên như bức tranh sơn mài óng ả : 
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
Đến với bức tranh mùa hạ, Tố Hữu không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà còn bằng thính giác “ve kêu”. Tiếng ve râm ran như báo hiệu hè về, kéo theo đó là cả núi rừng Việt Bắc đổ vàng theo màu hổ phách. Động từ “đổ” là một động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của cây phách đầu hè, vàng lên bởi ánh nắng hè chiếu rọi. Bức tranh mùa hạ không còn nét chấm phá nhẹ nhàng mà nó chứa độc một màu vàng. Ta ngỡ như Tố Hữu đang đổ cả bảng màu vào bức tranh ấy, để mực màu chảy tràn, bao phủ cả một vùng trời Việt Bắc. Chỉ trong một câu thơ ngắn ngủi, ta cũng có thể cảm nhận được bước đi của thời gian. Một bức tranh sống động đang xoay chuyển không ngừng; núi rừng bỗng chốc như đổ dần, đang nghiêng mình về phía mùa hạ. 
Sự tài tình của tác giả còn thể hiện ở lời thơ giàu tính hoạ và tính nhạc ở giữa thiên nhiên hùng vĩ mà ông nhẹ nhàng gửi gắm vào đó hình ảnh của “cô em gái hái măng một mình”. “Em gái” là một cách gọi thân thương, trìu mến, gắn bó như tình thân ruột thịt, thể hiện nét đẹp trẻ trung lãng mạn. Tuy “hái măng một mình” nhưng cô không hề hiu quạnh, đơn độc bởi bên cạnh cô là một tinh thần làm việc hăng say, một tinh thần luôn hướng về kháng chiến, hướng về hoà bình của dân tộc. Nhà thơ dường như đã gửi vào trang viết của mình sự yêu thương vô bờ, sự trân trọng và cảm thông với những người nhân dân - những người đã không quản ngại vất vả, cố gắng cống hiến sức mình cho đất nước.
Đi qua ba mùa đông - xuân - hạ với những nét đặc trưng riêng biệt, khép lại bức tranh tứ bình là vẻ đẹp nhẹ nhàng, thơ mộng, huyền ảo, bình yên của núi rừng lúc vào đêm thu với ánh trăng soi rọi, tỏa rạng:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Khác với vẻ đẹp cổ điển của thu sang trong thơ trung đại, khác với màu buồn trong mùa thu của Xuân Diệu, mùa thu của Tố Hữu đã khoác lên mình màu bình yên - gắn bó giữa thu - trăng và con người thật đặc biệt. Mùa thu kết thúc đoạn thơ tứ bình cũng là thời điểm kết thúc “mười lăm năm” “thiết tha mặn nồng”. Bức tranh thiên nhiên hiện ra thật nên thơ với ánh trăng toả sáng, chiếu rọi khắp khu rừng. Động từ “rọi” miêu tả nguồn sáng tập trung chiếu sáng một điểm hẹp trong không gian. Trăng “rọi” qua từng kẽ lá, trăng “rọi” từng hẻm đường, trăng “rọi” vào lòng người đi - kẻ ở một cảm xúc thiêng liêng trong niềm biết ơn, trân trọng những năm tháng cùng “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”. 
Trăng như một người bạn tri kỉ, là nhân chứng lịch sử, luôn dõi theo người lính trên mỗi bước đường hành quân. Trăng đã từng nhòm vào khe cửa, soi sáng những trang “Nhật kí trong tù” của Bác Hồ. Trăng đã từng đi vào “Đồng chí”, soi sáng tình đồng đội thiêng liêng. Và cả khi hoà bình được lập lại, trăng vẫn soi sáng người lính, ngầm nhắc nhớ người lính về cội nguồn trong “ánh trăng” - Nguyễn Duy. Trăng. Trăng đã rọi vào đường thơ của thi nhân những mảng chiếu sáng dài, rực rỡ và đong đầy tình cảm gắn bó.
Dưới ánh trăng của hoà bình, của chiến thắng, một tiếng hát “ân tình thuỷ chung” ngân lên. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi lên cảm giác bâng khuâng, chập chờn của nỗi nhớ. Đó phải chăng là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhớ đầy nghĩa tình? Lời hát ân tình như một bản lề khép mở; khép lại đoạn bức tranh tứ bình nhưng đồng thời cũng gợi ra toàn bộ thước phim kỉ niệm sống động về mười năm lăm máu lửa. Dẫu có đi đâu, tấm lòng những con người ấy vẫn luôn son sắt mà nhớ về nhau, nhớ về những năm tháng rộng dài ấy, họ đã bên nhau. 
Chế Lan Viên đã từng nhận xét về thơ Tố Hữu: “Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan; rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người nhưng cũng dễ nông cạn”. Và trong thơ Tố Hữu, ông đã giữ được cái thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Quả thật, đọc những vần thơ trong bức tranh tứ bình của Tố Hữu, ta cảm nhận được nhịp điệu ngân vang, sự trữ tình, tha thiết bao trùm lấy toàn bộ câu thơ. Nhưng trong những câu thơ ấy, ta vẫn thấy rõ được từng ý về thiên nhiên và con người rõ rệt.
Khác với những bức tranh tứ bình tả cảnh thông thường với thứ tự: xuân- hạ- thu- đông, bức tranh tứ bình Việt Bắc hiện lên trong thời điểm đan xen: quá khứ và thực tại, chính là trình tự cho dòng chảy thời gian của các sự kiện lịch sử. Đây còn là sự hoà trộn giữa kỉ niệm quá khứ và khoảnh khắc hiện tại. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ chính là kí ức đẹp đẽ nhất về một giai đoạn đã qua, được sàng lọc qua hồi tưởng của người ra đi. Còn mùa thu là mùa kết thúc bức tranh tứ bình, cũng là khoảnh khắc hòa bình trong hiện tại, mùa thu chia li trong sự vấn vương, nuối tiếc. Không chỉ vậy, tứ bình Việt Bắc còn có sự độc đáo trong kết cấu: có sự đối xứng, cân đối hài hoà giữa cảnh thiên nhiên và hình ảnh con người lao động- một đặc điểm tạo nên sự khác biệt và ghi dấu đậm nét Việt Bắc.
Bằng tài năng quan sát của mình, Tố Hữu đã vẽ nên một bức tranh tứ bình có một không hai: một sự kết hợp hài hoà giữa thiên nhiên và con người, giữa thanh âm và màu sắc. Bằng trái tim tha thiết yêu thương và tâm hồn rộng mở, Tố Hữu đã để lại trong lòng bạn đọc một mùa đông ấm áp với sắc đỏ tươi của hoa chuối, một mùa hè rực rỡ, óng vàng với rừng phách đổ vàng, một mùa xuân tinh khôi màu hoa mơ và một mùa thu hoà bình của ánh trăng rọi. Song song với đó là hình ảnh con người hiện lên với những nét đẹp tỉ mỉ, cần mẫn thật đáng mến. 
Qua những chi tiết cảnh vật và con người sống động, Tố Hữu đã ngợi ca vẻ đẹp của vùng đất Tây Bắc, ngợi ca nghĩa tình cách mạng thủy chung, son sắt. Nội dung trữ tình đó thăng hoa nhờ sự kết hợp của hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát truyền thống được vận dụng một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn tạo âm điệu mềm mại, uyển chuyển, ngọt ngào, tha thiết. Chỉ bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng ngày nhưng vẫn ghi đậm dấu ấn cho bạn đọc. Thêm vào đó, Tố Hữu đã làm mới lạ kết cấu đối đáp mình – ta, người về – kẻ ở quen thuộc trong các ca dao giao duyên. Trong dân ca, lối đối đáp này dùng để nói về tình cảm riêng tư, tình cảm đôi lứa. Chính yếu tố này đã giúp cho vấn đề chính trị thêm phần trữ tình, lãng mạn và gần gũi. Tất cả điều đó đã tạo nên hồn cốt dân tộc- đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu cho thi phẩm “Việt Bắc”
Bằng tình cảm gắn bó với Việt Bắc nghĩa tình, bằng “vốn cuộc đời” mà nhà thơ dân tộc đã từng trải qua, ông đã dệt nên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người Việt Bắc đầy say đắm trong lòng đọc giả. Và “bài thơ ấy, con người ấy”, vẫn mãi tỏa hương thơm ngát giữa khu rừng mênh mang của thơ ca, vẫn mãi dõi theo bao thế hệ trẻ Việt Nam trên bước đường dựng xây Tổ quốc. Bài thơ còn khiến ta nhớ đến lời Nguyễn Khoa Điềm dặn dò trong “Đất nước”: 
“Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”
 

Trải nghiệm đọc truyện tuyệt vời trên ứng dụng TYT

Download on the App Store Tải nội dung trên Google Play