“Núi xa khoác áo màu xanh nhất,
Suối gần hát tiếng tuyệt vời trong...
Chim rừng ríu rít ca tha thiết,
Buổi tiễn đưa, Việt Bắc đẹp vô cùng."
(Xuân Diệu)
Việt Bắc – cái nôi của cách mạng, nơi đây đã gắn bó suốt những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ của bộ đội và nhân dân ta. Nơi đây đã đi vào những câu thơ như một quê hương thứ hai của những cán bộ cách mạng, những người lính. Là một trong những lá cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam, Tố Hữu cũng đã bày tỏ nỗi niềm yêu thương sâu sắc, nỗi nhớ da diết đối với chiến khu Việt Bắc trong bài thơ cùng tên. Với "Việt Bắc", (......vđnl)
Nếu "Từ ấy" bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác thì "Việt Bắc" được coi là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu; là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp; được coi là khúc anh hùng ca và là bản tình ca của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng của dân tộc nên thơ ông mang đậm tính biên niên sử và trữ tình chính trị.
Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, cơ quan đầu não rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Hà Nội, tại sự kiện này Tố Hữu đã viết nên bài thơ. Với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu từ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát đối đáp ấy khơi gợi những kỉ niệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn."
Ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa "mình" và "ta" vô cùng tha thiết, mặn nồng. Tố Hữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của đôi lứa yêu nhau. Những chữ "mình", "ta" từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa Việt Bắc và cách mạng, kháng chiến.
Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng "mình" thân thương. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói hình ảnh người ra đi luôn đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, nhưng cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ "mình", "ta" đã như quấn quýt lấy nhau như sự gắn bó không muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh bằng: "Mình về mình có nhớ ta", làm cho tình cảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người trong cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang.
Kết cấu của 2 câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ khơi gợi những kỉ niệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Thông thường câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỉ niệm đầy xúc động của những năm tháng cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc, Việt Bắc gắn bó che chở cho kháng chiến để làm nên một Việt Nam dân chủ cộng hoà, bởi Tố Hữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ "mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ đã ai quên"
Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô hết sức tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. “Cây” và “sông” là hoán dụ để chỉ miền xuôi còn “núi”, “nguồn” là hoán dụ chỉ miền ngược, các hình ảnh hoán dụ đan xen nhau như là ẩn dụ về tình cảm khăng khít găn bó không thể tách rời. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong khung cảnh chia tay. Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước. Câu hỏi thực chất là để gợi nhắc về những băn khoăn trăn trở của người ở lại rằng người ra đi có nhớ quãng thời gian nghĩa tình ấy không?
Cụm từ “nhìn cây”, “nhìn sông” là ước lệ cho sự trở về với ánh điện của gương, về với gia đình của người ra đi. Đó là thực tế chắc chắn trong tương gần của người ra đi hướng về Việt Bắc, hướng về cội nguồn. Thêm nữa, cụm từ “nhớ nguồn” gợi nhắc đến một câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”- đó là đạo lí cao quý, thiêng liêng trong tình cảm của dân tộc ta. Trong thơ Tố Hữu, ông rất hay nhắc tới đạo lí này, nó đã trở thành thi liệu bút pháp nghệ thuật mang tính dân tộc, nó cũng thể hiện chiều sâu của nội dung cảm xúc, của đạo lí. Vì thế, “nhớ nguồn” không chỉ là nỗi nhớ về Việt Bắc mà còn là nỗi nhớ về cội nguồn rằng “mình về” mình có còn giữ được tình cảm, tình nghĩa, đạo lí thủy chung hay không?
Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng, thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ ta ngỡ như câu ca dao:
"Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu"
Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. Bốn câu thơ đầu như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của Việt Bắc vô cùng thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc xuyên suốt "Việt Bắc" hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.
Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ cũng đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng của lòng người về xuôi với Việt Bắc, tương xứng với sự thuỷ chung của Việt Bắc. Ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn rịn không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, Tố Hữu buông một câu thơ rất tình tứ:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi"
“Tiếng ai” nhưng thực chất là tiếng lòng người Việt Bắc ở lại cùng tấm lòng. Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say đắm lòng người. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để rồi bày tỏ tình cảm của mình. Đó là trạng thái "bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi".
Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi. “Bâng khuâng” chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến vẫn còn dâng đầy trong tâm trí người đi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với Việt Bắc. Còn "bồn chồn" là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi, mỗi bước nhớ nhung; mỗi bước đi, mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ ấy.
Tố Hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đầu trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của "mình" với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả Việt Bắc đối với người kháng chiến qua một hình ảnh hoán dụ:
"Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Áo chàm là một loại trang phục truyền thống của những người dân tộc vùng đất này, để chỉ chính những con người Việt Bắc trong thủ pháp hoán dụ đã in đậm trong trí nhớ của người ra đi. Họ ra tiễn những người cách mạng về nơi miền xuôi với một tâm trạng nao nao khó tả. Từ "phân ly" nghe sao thật buồn, nó thể hiện rằng người đi và người ở lại chẳng muốn rời xa nhau thế nhưng bởi hoàn cảnh, bởi nhiệm vụ mà họ phải chia cách.
Câu thơ với nhịp ngắt lẻ 3/3/2 khác với cách ngắt nhịp thông thường của thể thơ lục bát làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu quá đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán. Mỗi nhịp ngắt như có khoảng trống ngập ngừng của bước đi lưu luyến, của tâm trạng người ở lại không nỡ rời tay, người ra đi không nỡ dứt áo. Mỗi nhịp ngắt lại hướng về một hoạt động. “Cầm tay” là một cử chỉ thân thiết đã trở thành biểu tượng cho tình cảm sâu nặng giữa con người với con người cho nên chỉ cần hành động ấy thôi đã đủ để nói lên rất nhiều điều, không cần nói gì thêm nữa.
“Không biết nói gì hôm nay” nghĩa là mọi lời nói lúc này đều vô nghĩa, mọi lời nói lúc này đều không cần thiết nữa. Hơn hết đã có một cử chỉ thân thiết như cầm tay làm một khoảng lặng im để thể hiện cảm xúc trào dâng mãnh liệt trong giờ phút chia tay thiêng liêng này.
Nếu 8 câu đầu mới chỉ dừng lại ở nét khái quát về thời gian và không gian thì đến 6 câu hỏi tiếp theo trong đoạn trích này đã hỏi đã cụ thể hơn hướng về những kỉ niệm cụ thể khơi gợi những cảm xúc.
Liên tiếp 6 câu hỏi gấp gáp gợi nhắc hàng loạt những kỷ niệm. Dường như thời gian chia tay đang đến gần người lại muốn tranh thủ những khoảnh khắc cuối cùng để hỏi để giãi bày để nhắc nhở.
Sáu câu hỏi với âm hưởng du dương bởi sự đối đáp của những từ ngữ, điệp từ, điệp ngữ, điệp ngữ pháp tạo cảm giác dìu dặt, trao đưa giữa những cảm xúc khiến cho những kỉ niệm như ùa về.
Qua những câu hỏi, người ở lại gợi nhắc những khắc nghiệt, buồn tẻ của thiên nhiên thời tiết Việt Bắc với mưa nguồn suối lũ, mây mù và lau xám, gợi nhắc cuộc sống thời kháng chiến gian khổ và những tâm tư trĩu nặng trong lòng -"miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", gợi nhắc cả những trang sử hào hùng -"nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh", gợi nhắc những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của đất nước lúc bấy giờ ghi lại những chặng đường những bước ngoặt của cuộc kháng chiến là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Và thông qua những câu hỏi cũng đã gợi nhắc những khó khăn thiếu thốn gian khổ ở Việt Bắc cả mình và ta đã cùng nhau chia sẻ và kề vai sát cánh để vượt qua và viết nên những trang sử hào hùng của cuộc kháng chiến. Chính điều này đã tạo nên cội nguồn tình nghĩa trong quá khứ làm nên nỗi lưu luyến nhớ thương ở hiện tại và sự thủy chung ở tương lai son sắt thủy chung không thay đổi.
Mời lăm năm gắn bó ân tình khiến người ra đi thấu hiểu, đồng cảm. Tuy nhiên trong việc phút chia tay sắp tới gần người cán bộ kháng chiến chuẩn bị về với gia đình về với ánh điện lấp lánh của thành phố thì người ở lại cũng cảm thấy lo lắng băn khoăn và xuất hiện hàng loạt những câu hỏi đó là:
"Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già"
Câu hỏi xuất hiện hình ảnh "rừng núi" là hoán dụ để chỉ người ở lại cùng với đại từ phiếm chỉ "ai" - “người ra đi” là "mình" làm cho đối tượng ra đi thấm đẫm nỗi nhớ nhung của người lại và câu hỏi tu từ thực chất là để bộc lộ cảm xúc trăn trở, băn khoăn trong lòng người ở lại. "Mình về rừng núi nhớ ai" sử dụng cách nói vòng nói tránh để giấu đi những ngại ngùng, mặc cảm khó nói hay những nỗi niềm quá sâu nặng sợ nó trào dâng mà ùa ra.
Trong dòng thơ tiếp theo với hai tiểu đối không bộc lộ cảm xúc trực tiếp nỗi nhớ thương như câu 6 chữ, nhưng qua những hình ảnh "trám bùi", "măng mai" là những sản vật bình dị quen thuộc của người dân Việt Bắc nơi đây đã thể hiện lên điều đó.
Trám với măng là những sản vật rất quý giá của những người dân miền núi, là những thứ người ở lại đã từng chia sẻ với người ra đi trong suốt 15 năm kháng chiến. Những hình ảnh đó đã khơi thức bao nhiêu kỉ niệm trong quá khứ. "Để rụng", "để già" là hình ảnh ước lệ cho sự hoang vắng trống trải của cuộc sống sau lưng người ra đi như ngưng trệ lại, trám bùi trên cây không ai buồn đi hái, măng mai để già. Người trở về đã để lại một khoảng trống mênh mông không thể bù đắp trong lòng người lại. Đó là câu hỏi tu từ là cách gợi tả gợi cảm vô cùng thấm thía.
"Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son"
"Nhà" là hình ảnh hoán dụ cho người Việt Bắc, một lần nữa câu thơ lại sử dụng cách nối vòng nói tránh cho câu hỏi: "liệu mình có còn nhớ ta không?". Trong câu 8, lại xuất hiện hai tiểu đối tương phản, hai từ láy "hắt hiu", "đậm đà" được đảo lên đầu mỗi vế. Vế đầu gợi không gian hoang vắng cuộc sống nghèo khổ, buồn tẻ của rừng núi Việt Bắc nhưng đối lập theo đó là vẻ đẹp "đậm đà lòng son", son sắc, thủy chung, tình nghĩa sâu nặng trong tính cách, trong tâm hồn của người Việt Bắc.
Câu thơ là nét khắc họa đặc trưng nhất cho hai bình diện tương phản: cuộc sống bình dị mộc mạc và tấm lòng son sắc của người Việt Bắc đồng thời nó còn là nỗi nhớ da diết của người lại với người ra đi đừng nên chỉ nhớ Việt Bắc như một nơi nghèo khổ, buồn tẻ, hiu hắt mà hãy nhớ về họ với tấm lòng thủy chung không thay đổi.
Tố Hữu cũng cho thấy cái biến hoá linh hoạt trong cách nói năng, trong sự cảm nhận sắc thái ý nghĩa của từ. Ở đây "mình" là mình nhưng cũng lại là "ta". Mình với ta tuy hai mà một, tuy một mà hai. Cho nên người ở lại mới nói với người về xuôi:
"Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
Câu thơ có rất nhiều cách hiểu dường như hình ảnh thơ đã có sự cố tình mơ hồ hóa ý nghĩa thông qua việc sử dụng tới 3 lần đại từ "mình" khác nhau trong một dòng thơ. Từ "mình" thứ nhất và từ "mình" thứ hai là chỉ người ra đi nghĩa là người trở về. Còn từ mình thứ ba có thể là chỉ "ta" câu thơ thì khi đó sẽ trở thành: "mình đi mình có nhớ ta". Tức là người ở lại hỏi người ra đi có nhớ ta không. Đó là sự đồng nhất về ngôn ngữ cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa người ra đi và người lại, giữa Việt Bắc và người kháng chiến, ta với mình tuy hai mà một.
Nhưng biết đâu đại từ thứ ba ấy cũng chính là "mình" - người ra đi thì khi đó câu hỏi sẽ là "mình đi mình có nhớ mình hay không?". Nghe có vẻ phi lý nhưng trong ý nghĩa sâu sắc của nó “mình đi” tức là mình về với gia đình, về với Hà Nội, là về với ánh điện cửa gương liệu mình có còn giữ được con người thủy chung, nhân hậu, dũng cảm mà ta đã biết, đã nhớ, đã thương hay không? Ý thơ đã gợi nhắc tới những dòng thơ trong bài thơ "Ánh Trăng" của Nguyễn Duy đó là:
"Vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường"
cho nên câu thơ như một lời nhắc nhở nghiêm nghị "đừng đánh mất chính mình" vừa thiết tha vừa nghiêm nghị.
Trong câu 8 xuất hiện hai kiểu đối: "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa". Hai danh từ riêng gắn với hai địa danh lịch sử nổi tiếng với hai sự kiện lịch sử quan trọng bậc nhất của cách mạng tháng Tám. Đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng và phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hai danh từ chung “mái đình, cây đa” là những hình ảnh bình dị, quen thuộc với làng quê Việt Nam thời xưa là nơi hội họp cũng là nơi gặp gỡ hẹn hò của tình yêu đôi lứa. Tuy hai danh từ chung có khi gợi tả ra những tình cảm lớn lao như tình cảm cộng đồng tình nghĩa làng xóm, cũng có khi nó gợi ra tình cảm thầm kín riêng tư như tình yêu đôi lứa và khi Việt Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến suốt 15 năm thì những địa danh Tân Trào, Hồng Thái với những người Việt Bắc bây giờ cũng trở nên gần gũi thân yêu, những sự kiện lịch sử quan trọng bậc nhất lúc bấy giờ cũng trở thành mối quan tâm hàng đầu trong lòng người Việt Bắc, trở thành những câu chuyện ở đình làng, ở dưới bóng cây đa thành những câu chuyện trò của đôi lứa yêu nhau.
Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng trữ tình, là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc:
“ Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”
Cách ngắt nhịp lẻ 3/3 tạo nên sự đăng đối trong ngôn từ ở câu thơ "Ta với mình mình với ta" đó là sự song phương trong tình cảm hai bên Người ở lại nhớ thương người ra đi người ra đi thương nhớ người ở lại. Cùng với đó là phép điệp tạo nên sự quấn quýt đan xen không thể tách rời giữa "mình" và "ta". Bên cạnh đó là nghệ thuật đối lập sau và trước khẳng định tình cảm thủy chung trước sau như một không thay đổi như một lời thề thể hiện tâm nguyện không phai nhòa, là lời hứa ra đi không quên cội nguồn Việt Bắc.
"Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu"
Câu thơ như là câu trả lời cho câu hỏi "mình đi mình có nhớ mình", ý nghĩa của câu trả lời cũng chịu nặng ở từ "mình" thứ ba. Nếu “mình” là người ở lại thì câu trả lời có nghĩa là "ta đi ta lại nhớ về mình", mình với ta tuy hai mà một không thể tách rời; còn nếu hiểu “mình” là người ra đi thì câu trả lời như một lời thề "ta sẽ không bao giờ thay đổi, không bao giờ quên mình, không quên quá khứ, đặc biệt không đánh mất chính mình-con người mà mình đã yêu quý, đã kính trọng, gắn bó, che chở suốt 15 năm".
Qua nghệ thuật so sánh nghĩa tình của người ra đi và người lại với nước trong nguồn cho ta thấy sự độc đáo trong cách sử dụng nghệ thuật tu từ của tác giả. "Nước trong nguồn" thì không bao giờ vơi cạn và tình cảm với cách mạng cũng không bao giờ thay đổi. Lời của người ra đi đáp lại tình cảm người ở lại bằng những lời khẳng định chắc chắn như một lời thề hứa không bao giờ thay đổi. Tác giả đã thể hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc, đồng thời thể hiện tình cảm thủy chung son sắc đó là nét đẹp truyền thống của nhân dân Việt Nam từ ngàn đời nay.
Gớt (J.W Goethe) đã từng nói “một nghệ sĩ có thể coi là nhà văn mẫu mực của dân tộc nêu tác phẩm của anh ta thấm nhuần tính dân tộc”. Tính dân tộc trong thơ ca văn học là việc người thi sĩ sử dụng chất liệu truyền thống mang vào nội dung sáng tác. Đọc “Việt Bắc” của Tố Hữu ta sẽ thấy lịch sử nước mình trong đó tình yêu giữa đồng bào, thiên nhiên núi rừng, ca dao dân ca Việt Nam. Đặc biệt chất liệu truyền thống được dùng xuyên suốt bài thơ là thể thơ lục bát cùng âm điệu ngọt ngào, lay động; cách miêu tả giàu hình ảnh, lối hát đối đáp mượn từ ca dao dân ca. Nhiều biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phép điệp làm cho nội dung bài thơ như một khúc nhạc mang đậm truyền thống dân ca Bắc Bộ, âm hưởng của khúc nhạc ấy cứ ngân vang mãi lên trong lòng người đọc, tất cả cùng hòa quyện chắp cánh bay lên tạo nên thi phẩm “Việt Bắc”.
Thật vậy, nếu tình cảm của Tố Hữu với “Việt Bắc” không đủ lớn không đủ sâu đậm thì Tố Hữu sẽ không bao giờ viết ra được một thi phẩm như thế. Nhờ khúc nhạc đẹp đẽ, lãng mạn ấy nhà thơ đã bộc lộ những tình cảm tha thiết sâu đậm của mình về tình đồng bào, đồng chí. Qua đó tác giả cũng muốn nhắn nhủ với người đọc đừng quên những năm tháng hào hùng, thấm đẫm máu và nước mắt của dân tộc ta ngày trước.